Trong vài năm qua, hydroquinone đã trở thành một thành phần chăm sóc da gây tranh cãi. Chỉ biết rằng hydroquinone là một chất ức chế mạnh việc sản xuất melanin và trong hơn 50 năm qua đã được biết đến như là thành phần hiệu quả nhất và có khả năng loại bỏ màu nâu trên da bị đổi màu thường được gọi là nám.
hydroquinone đã trở thành một thành phần chăm sóc da gây tranh cãi
Hydroquinone hiệu quả đến mức nào
Ở những nồng độ khác nhau, hydroquinone ức chế hoặc ngăn ngừa da tránh khỏi các enzyme chịu trách nhiệm sản xuất melanin, sắc tố chính khiến da nám (Nguồn: Journal of Drugs in Dermatology, tháng 3 năm 2010, trang 215-218). Sản phẩm không kê toa chứa hydroquinone với nồng độ 0,5% tới 2%, 2% là liều lượng không kê toa hiệu quả nhất. Tại các hiệu thuốc, nồng độ 4% hydroquinone (và thậm chí đôi khi còn cao hơn) có sẵn chỉ khi có đơn thuốc. Nồng độ 12% hydroquinone thực sự ngăn ngừa hoàn toàn việc sản xuất melanin.
Sản phẩm không kê toa chứa hydroquinone với nồng độ 0,5% tới 2%, 2% là liều lượng không kê toa hiệu quả nhất
Tác dụng phụ của Hydroquinone
Nguy cơ đáng lo ngại nhất từ hydroquinone là chứng rối loạn da có tên gọi ochronosis làm da đổi thành màu xanh đen. Các trường hợp này là kết quả của việc sử dụng lâu dài với nồng độ cao, hoặc sử dụng sản phẩm hydroquinone đã được pha trộn với các thành phần nguy hiểm (Nguồn: Journal of the European Academy of Dermatology and Venereology, tháng 7 năm 2009, trang 741-750; và Journal of the American Academy of Dermatology, tháng 11 năm 2007, trang 854-872).
Bên cạnh đó, Hydroquinone cũng khiến da nhạy cảm hơn với nắng và có thể gây kích ứng, châm chích với da nhạy cảm.
Tranh cãi về luật cấm Hydroquinone
Sản phẩm gốc Hydroquinone đã bị cấm ở Nam Phi nhiều năm trước đây, nơi các vấn đề xảy ra nghiêm trọng nhất. Tuy nhiên, các sản phẩm hydroquinone ở Nam Phi và các nước châu Phi khác cũng đã được tìm thấy có chứa thủy ngân và glucocorticoid, trong số những chất ăn mòn da và bất hợp pháp khác, được cho là nguyên nhân gây ra các tác dụng phụ nghiêm trọng (Nguồn: International Journal of Dermatology, tháng 2 năm 2005, trang 112-115; và British Journal of Dermatology, tháng 3 năm 2003, trang 493-500). Những nước thành viên của Liên minh châu Âu đã cấm hydroquinone chủ yếu trên cơ sở các báo cáo này.
Liệu Hydroquinone có gây ung thư?
Câu hỏi liên quan về hydroquinone có là một chất gây ung thư hay không cũng đã được đề cập trong các nghiên cứu. Tỷ lệ mắc phải đã được chứng minh khi cho chuột bạch ăn hoặc tiêm vào chúng những với liều lượng hydroquinone lớn, mặc dù với việc dùng ngoài da chưa có nghiên cứu nào cho thấy nó gây đột biến trên người và động vật. Trong thực tế, có rất nhiều nghiên cứu cho thấy hydroquinone an toàn và hiệu quả (Nguồn: Cutis, tháng 4 năm 2008, trang 356-371 và tháng 8 năm 2006, trang S6-S19; Critical Reviews in Toxicology, tháng 11 năm 2007, trang 887-914; Journal of Cosmetic Laser Therapy, tháng 9 2006, trang 121-127; American Journal of Clinical Dermatology, tháng 7 năm 2006, trang 223-230; và Journal of the American Academy of Dermatology, tháng 5 năm 2006, các trang S272-S281)..
Hydroquinone ghét không khí!
Một điểm quan trọng cần lưu ý là: hydroquinone có thể biến thành màu nâu kì lạ nếu tiếp xúc lâu dài và hàng ngày với không khí hay ánh sáng mặt trời. Khi bạn đang xem xét một sản phẩm có hydroquinone, điều cần thiết là phải đảm bảo nó được đóng gói trong bao bì kín và tối để không cho ánh sáng lọt vào và giảm thiểu lượng phơi nhiễm không khí. Sản phẩm hydroquinone được bảo quản trong dạng hũ là hoàn toàn không nên vì một khi đã mở chúng nhanh chóng mất tác dụng.
Lựa chọn thay thế Hydroquinone
Nhìn chung, mặc dù có nhiều chứng minh về tính an toàn và hiệu quả và song Hydroquinone vẫn được xem là loại chất khó sử dụng và nên sử dụng dưới sự chỉ dẫn của bác sĩ. Có rất nhiều thành phần làm trắng khác mà bạn có thể cân nhắc lựa chọn.
Đối với những lựa chọn làm sáng da tiềm năng khác như arbutin, ellagin acid, niacinamide, chiết xuất cam thảo (cụ thể glabridin), acid azelaic, và hình thức ổn định của vitamin C (axit L-ascorbic, axit ascorbic, ascorbyl phosphate và magnesium) cũng có thể được xem xét. Mặc dù hiệu quả có thể không bằng hydroquinone song tính an toàn khi sử dụng cao hơn và cũng ít các tác dụng phụ đi kèm hơn so với hydroquinone.
Hiểm họa thủy ngân trong sản phẩm làm trắng da
Việc sử dụng thủy ngân trong sức khỏe và làm đẹp (một cách sai lầm) không phải là vấn đề xa lạ. Ở Trung Quốc và Tây Tạng, thủy ngân từng được nhầm tưởng là có thể giúp kéo dài tuổi thọ, làm lành các chỗ gãy trên cơ thể, và giúp duy trì sức khỏe.Theo sử liệu Tây phương, năm 210 TCN, Tần Thủy Hoàng qua đời vì thường uống hỗn hợp thủy ngân pha bột ngọc bích. Đây là hỗn hợp đã được các ngự y dày công nghiên cứu và dâng lên với mục đích giúp nhà vua trường sinh bất lão(!) Người Hy Lạp cổ dùng thủy ngân trong thuốc mỡ. Người Ai cập cổ và người La Mã cũng ứng dụng thủy ngân trong mỹ phẩm.
Các sản phẩm làm trắng chứa thủy ngân
Lý do thủy ngân được cho vào các sản phẩm làm trắng là vì cái muối của thủy ngân giúp ức chế sự hình thành melanin, dẫn đến việc da trở nên trắng hơn. Các sản phẩm làm trắng có thể ở dưới nhiều hình thức, bao gồm xà phòng (kể cả những sản phẩm dán mác “Diệt khuẩn) và kem.
Lý do thủy ngân được cho vào các sản phẩm làm trắng là vì cái muối của thủy ngân giúp ức chế sự hình thành melanin, dẫn đến việc da trở nên trắng hơn
Sản phẩm chứa nồng độ thủy ngân cao thường có màu ghi xám hoặc màu kem. Trong thành phần, thủy ngân có thể được viết dưới tên gọi: mercury, Hg, mercuric iodide, mercurous chloride, ammoniated mercury, amide chloride of mercury, quicksilver, cinnabaris (mercury sulfide), hydrargyri oxydum rubrum (mercury oxide), mercury iodide hoặc “poison”. Hướng dẫn sử dụng yêu cầu tránh tiếp xúc với bạc, vàng, cao su, nhôm hoặc đồ trang sức (avoid contact with silver, gold, rubber, aluminium and jewellery) có thể đồng nghĩa với sự tồn tại của thủy ngân trong sản phẩm. Tuy nhiên hầu hết các sản phẩm có chứa thủy ngân thường không liệt kê chất này trong danh sách thành phần trên bao bì.
Tác hại khôn lường của thủy ngân
Một số hợp chất thủy ngân có thể được hấp thụ qua da, đi vào máu, và có thể gây ra các vấn đề thận và gan, mệt mỏi, khó chịu, run, trầm cảm, hương vị kim loại trong miệng, mang thai dị tật bẩm sinh (đó là lý do tại sao các bà bầu thường được khuyến cáo không nên ăn các loại cá dưới tầm nước sâu, có chứa thủy ngân), và kết cuộc là cái chết. Không chỉ gây hại cho người trực tiếp sử dụng, hơi thủy ngân trong các sản phẩm làm trắng có thể lan trong không khí, khiến những người xung quanh, đặc biệt là trẻ em, dễ dàng hít phải. Ngoài ra, em bé có thể chạm tay vào da người lớn có thoa kem thủy ngân, rồi đưa lên miệng mút, thế là em bé cũng nhiễm thủy ngân.
Quy định về cấm sử dụng thủy ngân
Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) quy định nồng độ thủy ngân tối đa trong các sản phẩm là 1ppm (đơn vị ppm – parts per million – nghĩa là 1 phần triệu). Duy chỉ có sản phẩm trang điểm mắt như eyeliner và mascara, FDA cho phép sử dụng thủy ngân như là chất bảo quản ở nông độ tối đa 65ppm ~0.0065% (tương đương 100mg/kg phenylmercuric acetate hoặc nitrate) trong những trường hợp không tìm được chất thay thế đủ hiệu quả và an toàn. Lý do là một số chất bảo quản có chứa thủy ngân tỏ ra rất hiệu quả trong việc ngăn chặn vi khuẩn Pseudomonas làm mỹ phẩm bị nhiễm khuẩn.
Riêng ở bang Minnetsota đã cấm hòan toàn việc sử dụng thủy ngân song mỹ phẩm, dụng cụ vệ sinh cá nhân hay nước hoa.
Theo WHO, Liên minh Châu Âu (EU) và nhiều nước Châu Phi đã cấm việc sử dụng thủy ngân và các hợp chất của thủy ngân trong mỹ phẩm (bao gồm dầu gội, xà phòng, lotion, các sản phẩm làm trắng da). Riêng đối với các muối phenyl mercuric trong sản phẩm trang điểm mắt và tẩy trang mắt là 0.007%
Thực tế thủy ngân vẫn đang được sử dụng rộng rãi
Ngày nay, mặc dù tác hại của thủy ngân đã được xác nhận, nó vẫn là thành phần cực kỳ phổ biến trong các sản phẩm làm trắng da. Năm 2013, kiểm nghiệm các sản phẩm làm trắng da được bày bán ở Mỹ, Nhật Bản, Thái Lan, và một số nước khác cho thấy những thông số đáng lo ngại:
-
6% toàn bộ mẫu thử chứa hơn 1,000ppm thủy ngân
-
Trong 6% ấy, 45% mẫu thử chứa hơn 10,000ppm thủy ngân
-
3% mẫu thử ở Mỹ chứa hơn 1,000ppm thủy ngân
Mặc dù quy định là thế, nhưng việc kiểm duyệt thị trường, kể cả ở những nước tiên tiến, vẫn không đủ chặt chẽ để loại bỏ hoàn toàn các sản phẩm chứa thủy ngân. Đến mức các bác sĩ da liễu phải cảnh báo: bất cứ ai dùng sản phẩm làm trắng da đều có nguy cơ đang sử dụng sản phẩm chứa thủy ngân.
Ở các nước phương Tây, người tiêu dùng có thể mang sản phẩm mình đang sử dụng đến bác sĩ da liễu để kiểm tra nồng độ thủy ngân. Trong trường hợp nghi ngờ bị nhiễm thủy ngân (qua các dấu hiệu như đau đầu, khó thở, chảy dãi, yếu cơ), bạn nên ngay lập tức đến gặp bác sĩ. Một xét nghiệm nước tiểu đơn giản là đủ để nhận diện thủy ngân trong cơ thể.
Nhiều thế hệ đi trước đã “hy sinh” bản thân để chứng minh tầm nguy hại của thủy ngân. Đừng “phụ lòng” họ, hãy là người tiêu dùng sáng suốt và tránh xa thủy ngân trong mỹ phẩm các bạn nhé. Điều này đồng nghĩa với việc tránh xa các loại kem trộn và kem không rõ nguồn gốc. Nếu bạn vẫn muốn có làn da sáng hơn hiện tại, Thi Mai gợi ý đắp mặt nạ nước chanh tươi và mật ong trong khoảng 15 phút rồi rửa lại bằng nước ấm. Khi sử dụng các sản phẩm làm sáng da, bạn nên để ý những thành phần an toàn mà vẫn hiệu quả như Vitamin C, Alpha Hydroxy Acids, hoặc Niacinamide. Một điều nữa vô cùng quan trọng: luôn bảo vệ da khi đi nắng bằng cách thoa đủ lượng kem chống nắng và mặc trang phục phù hợp.
Bình luận